Phú Thọ - mảnh đất ngát hương thơm từ nguồn cội dân tộc sẽ khoản đãi bạn bè khắp nơi bằng các món “sơn hào hải vị” rất bình dị mà thắm nghĩa tình, thể hiện nét ẩm thực đặc trưng vùng Đất Tổ.
1: Bưởi Đoan Hùng Có một mối liên hệ ràng buộc nào đó mà cả ba miền Bắc - Trung - Nam của nước ta đều có giống bưởi ngon. Bưởi Phúc Trạch đặc trưng cho miền Trung nắng gió, bưởi Năm Roi chọn cho mình vùng đất Nam Bộ màu mỡ để sinh sôi. Bưởi Đoan Hùng (thuộc huyện Đoan Hùng) - giống bưởi chắt lọc tinh chất từ sỏi đá trung du để ngon, ngọt đến lạ kỳ.
Bưởi Đoan Hùng xưa còn gọi là “bưởi Phủ Đoan”, vẫn được biết đến bởi những đặc điểm tép nhỏ, quả nhỏ, vỏ héo, mềm, mọng nước, ngọt và mát. Ngày nay, đến Đoan Hùng bạn sẽ được biết đến một số giống bưởi như bưởi Bằng Luân, quả to, dáng đẹp, vỏ vàng xanh. Bưởi Pôlênô (lai Mỹ) quả to, dáng thô, tôm nát, vị chua, không dóc vỏ. Bưởi Lã Hoàng tròn dẹt, hình bánh xe ăn mát ngon.... Và cuối cùng là bưởi Sửu, quả vừa, xinh xắn, vỏ vàng rộm, da hơi nhăn, dáng vẻ trông khiêm tốn hơn cả. Nhưng đây mới là loại bưởi quý hiếm nhất, người sành ăn sẽ chọn bưởi Sửu.
Có lẽ làm nên cái hồn cho bưởi Đoan Hùng là hương bưởi, cái mùi thơm ngan ngát ấy thực khó diễn tả. Tết đến, xuân về trên bàn thờ tổ tiên mà có trái bưởi Đoan Hùng thì hương vị đặc biệt ấy sẽ làm cho không khí gia đình thêm ấm cúng. Bạn đừng quên chọn cho mình được một trái bưởi làng Chí, hay bưởi Sửu vào mùa hè để thưởng thức vị ngọt lịm, tan nơi đầu lưỡi và thấm cái mát đến tận ruột gan, da thịt.
Bưởi đang làm giàu cho Đoan Hùng, mỗi trái bưởi gửi đến mọi miền đất nước là gửi gắm cái tâm thanh khiết của người trồng bưởi. Có thế bưởi Đoan Hùng mới mang vị đậm đà, bình dị đến vậy.
2: Hồng Hạc TrìLoại quả được coi như sản vật quí hiếm của vùng đất Tổ này được người xưa xếp đứng đầu trong hàng ngũ hoa quả quý dùng để tiến vua. Hồng Hạc là niềm tự hào của người Đất Tổ. Đến nay, nhiều vườn hồng Hạc còn có những cây to cả một người ôm, có cây ngót trăm tuổi. Hồng Hạc quả to, không hạt, mình vuông, tròn bằng, cát mịn, giòn ngọt, càng ăn càng thèm chứ không hăng chát, nhão thịt như hồng nước, hồng trâu.
Hồng Hạc mới hái phải được ngâm nước giếng đá ở Tiên Cát, Việt Trì mới đạt độ ngọt và giòn đặc biệt. Ngâm trong vại sành hay trong chum đủ ba ngày ba đêm mới vớt ra, khi ấy hồng sẽ tươi vàng, giòn mát, cắn cả vỏ vẫn thơm lựng chất đường.
Hồng Hạc mộc mạc, chân quê, thuần khiết. Nâng trái hồng trên tay, lựa lưỡi dao sắc, gọt lớp vỏ vàng màu nắng nhạt, bổ ra đã thấy thơm lựng, vị ngọt dịu dàng, đài các ngất ngây duyên trời, duyên đất. Cái mát, cái giòn, cái ngọt cứ ngập ngừng, quyến luyến khiến người thưởng thức không nỡ nuốt nhanh. Hồng Hạc bày trên mâm cỗ trung thu, thưởng ngoạn dưới trăng thu thi vị thanh tao, càng khó có thứ quả nào sánh kịp.
3: Các món cá
Cá Lăng chỉ sống ở sông có dòng chảy, độ sâu và mặt nước rộng. Nó sống ở đáy nước, ăn động vật. Chỉ khi đã lớn mới trồi lên mặt nước, bởi vậy ngư dân “hớt xẻo” thường bắt được cá Lăng to từ vài cân đến vài chục cân. Là cá ngon nhất trong nhóm cá da trơn.
Cá Anh Vũ
Tại ngã ba sông Việt Trì có cá Anh Vũ quý hiếm xếp vào loại hàng cá nước ngọt. Sống ở đáy sông, ăn rêu đá, suốt mùa xuân hè ẩn trong hang, chỉ sang thu đông mới ra ngoài. Vì thế chỉ hôm nào rét đậm sương mù mới đánh được cá Anh Vũ. Thời phong kiến, loài cá này dùng để tiến vua.
Quãng sông Thao thuộc huyện Thanh Ba có giống cá Cháy, loại cá có hai buồng trứng to và rất ngon. Chính vì vậy khi bắt được cá Cháy người ta sẽ mổ ra và chỉ lấy hai buồng trứng. Những người sành ăn sẽ không ngần ngại chọn cá Cháy trong vô số những loại cá khác.
Những năm gần đây, tại thành phố Việt Trì đã xuất hiện một số nhà hàng chế biến, kinh doanh những loại cá này để phục vụ thực khách. Nổi tiếng và lâu năm nhất có lẽ phải kể đến “Quán cá Bờ Sông”, sau này có Quán cá Bạch Hạc và một số nhà hàng ăn uống khác.
4:Nước chè xanh Đất của nước chè mà khi viết về ẩm thực lại không nhắc đến chè thì quả là thiếu sót với đất và người nơi này. Ấy vậy mà trong hàng chục sản phẩm từ chè, người Phú Thọ lại chọn cho mình một thứ dân dã lắm nhưng cũng đậm đà lắm để thết đãi bạn bè gần xa: Nước chè xanh.
Nghe qua về món nước tươi, mát, bổ này chắc ai cũng nghĩ chế biến nó thật đơn giản. Chọn hái khoảng chục lá chè, rửa sạch, cho vào hãm với nước rồi chắt ra uống. Nói thế cũng đúng nhưng chưa đủ để nước chè xanh (chè tươi) trở thành thú thưởng ngoạn bình dân mà tao nhã.
Nhìn cách uống chè xanh của người dân nơi thôn dã mới thấy hết được nét truyền thống của thú ẩm thực này. Từ cây chè để hái lá uống tươi cũng phải chọn lựa. Để có nước chè xanh màu đẹp, mùi thơm, vị ngọt chát, phải chọn những cây chè mọc tự nhiên trong rừng già, chen chúc giữa muôn loài cây cối khác. Trông cây chè tựa như một cây cổ thụ, gốc xù xì to ngang với các cột nhà, cành lá vươn cao, muốn hái phải leo lên mới với tới. Ưa chát thì chọn cây giãi nắng, ưa ngọt thì chọn cây ớm bóng. Lá chè tốt nhất là những lá chớm vàng, còn trụ bám vững trên cây.
Nước để hãm chè tươi cũng phải chọn nguồn thích hợp. Hầu như mỗi làng chỉ có một nơi có nguồn nước thích hợp với việc này thôi, chỗ này được gọi là “giếng quê”. Người biết nấu chè xanh phải dùng ấm đất nung. Khi nấu người ta sẽ nút cả vòi ấm lại để giữ hương thơm và đề phòng quá lửa sôi trào mất nước cốt.
Nhâm nhi một bát nước chè xanh để bàn chuyện nhân tình thế thái, để đỡ khát giữa buổi lao động mệt nhọc, để ấm lòng mỗi khi nhớ về quê hương bản quán, để cái dư vị ngọt ngào ấy theo ta mãi về sau... Đến bất cứ nơi nào trên đất Phú Thọ, nếu được mời một bát nước chè xanh, bạn đừng nỡ từ chối. Đó là tấm lòng hiếu khách họ dành cho bạn đấy!
5:Rau sắn: Nói đến rau sắn có thể quý khách nghe nhầm là đặc sản “rau sắng” chùa Hương – Hà Tây. Quả thật rau sắn không quý hiếm mà được trồng bạt ngàn trên các vùng đồi trung du Phú Thọ. Là người con Đất Tổ, hình như ai cũng đã được thưởng thức các món sắn luộc, sắn nấu canh hến, các loại bánh sắn… nhưng không thể nào quên hương vị chua chua, bùi bùi của rau sắn muối dưa nấu cá, nấu với lạc nhân giã nhỏ. Những búp sắn non trồng ở bờ dậu được các bà, các chị hái về, bỏ bớt những cọng lá già đem muối dưa 2,3 ngày. Khi rau ngả màu vàng và có vị chua thì đem nấu. Cách nấu ngon nhất là nấu với tép sông hoặc cá mè hoa trắng. Nếu như đã từng được nếm món ăn dân dã này thì thật khó quên dư vị của nó!
6: Bánh Tai Mấy năm nay, món bánh Tai thị xã Phú Thọ đã “lên ngôi”. Tại các lễ cưới, tiệc tùng dùng thay cho cơm tẻ, vừa tiện dùng, vừa lịch sự và hấp dẫn. Bánh Tai đã trở thành quà quý lạ về tận Hà Thành và một vài tỉnh bạn. Thứ quà trong ngày nhưng phải biết giữ gìn công phu.
Bán Tai Phú Thọ hôm nay có từ thời xa xưa của làng Phú Thọ gọi là bánh Hòn. Bánh Tai có hình thù giống cái tai, là thứ bánh gạo tẻ, nhân thịt lợn, dễ làm bởi quy trình không mấy phức tạp, dụng cụ không cầu kỳ nhưng không phải ai cũng làm nổi cái bánh Tai.
Xưa cũng như nay, khâu chọn gạo làm bánh vẫn là khâu quyết định chất lượng bánh, gạo phải ngon và có độ dẻo. Gạo làm bánh đãi sạch, ngâm nước lã từ hai giờ đến nửa ngày. Sau đó đem giã cối đá và làm thành quả bột. Khâu này đòi hỏi bàn tay khoẻ, nắm cho bột kết dính thật chắc. Sau đó quả bột lại được cho vào cối đá giã thật nhuyễn và đánh cho thật tơi. Lấy tay nhào bột cho tới khi vừa độ dẻo rồi bắt đầu nặn bánh bằng tay (không có khuôn). Những người làm hàng thạo thường nặn 10 cái đều nhau như đúc khuôn. Bánh nặn dài như cái tai, có nhân thịt lợn ở giữa. Bánh nặn xong, xếp vào chõ xôi hấp cách thuỷ. Chỉ 30 phút đến một tiếng sau bạn đã có một mẻ bánh Tai như ý. Nhưng lưu ý, điều tối kỵ trong làm bánh Tai là không được để bột vón cục (còn gọi là mắt cá).
Bánh Tai ngon nhất là ăn tại chỗ, kiểu dân dã. Cái bánh Tai vừa đưa ra còn thoảng hơi nóng, lót tay bằng mảnh lá chuối hoặc cầm tay không từ từ ăn ngay mới thấm hết mùi vị của bánh, đó là sự hoà quyện giữa: dẻo, giòn, bùi, ngọt, béo ngậy và thơm.
7: Thịt chó Việt TrìCũng vẫn là bảy món đặc trưng như mọi nơi nhưng thịt chó Việt Trì lại có sức hấp dẫn rất riêng bởi hương vị đậm đà và khả năng chế biến đạt đến độ chuyên nghiệp. Chọn nguyên liệu được coi là khâu mấu chốt quyết định, không sử dụng những loại chó nuôi tăng trọng là đặc điểm quan trọng của thịt chó Việt Trì, đặc biệt chó nuôi gầm nhà sàn của các vùng dân tộc miền núi đã được trưng dụng và được thực khách sành ăn rất ưa chuộng, kế đến là khâu chế biến được coi là bí quyết gia truyền... Với cảm nhận của người thưởng thức, có thể đưa ra một vài nhận xét như sau: Thịt mềm, thơm, không sẫm màu như một số vùng khác. Đặc biệt những món như dồi, món nướng không bị khô. Món chân chó tẩm hấp lại mang đến một dư vị đậm đà khó tả với màu vàng ngậy và độ mềm, thơm vừa tới. Món xương hầm đu đủ mang đến một cảm nhận khác về sản vật vùng trung du miền núi...
Người Việt Trì tự hào về thú ẩm thực rất dân dã của đất mình và chắc chắn đến Việt Trì một lần bạn sẽ được những tấm lòng hiếu khách khoản đãi món ngon này. Phố Đoàn Kết là trung tâm của thịt chó Việt Trì với gần 20 cửa hàng lớn nhỏ. Những cửa hàng này đều đã có trên dưới chục năm nay nhưng vẫn mang vẻ bình dị, dân dã vốn có bởi theo những chủ cửa hàng ở đây thì phòng ốc bóng nhoáng, bàn ghế sang trọng sẽ không còn là thịt chó Việt Trì.